Hùm Xám Yên Thế là danh xưng người Việt Nam dành cho người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám với đội quân khởi nghĩa từng làm thực dân Pháp mất ăn mất ngủ cách đây 1 thế kỷ. Hoàng Hoa Thám tên thật là Trương Văn Nghĩa, sinh năm 1845 tại làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), cha ông là Trương Thận đã chiêu tập nghĩa binh nổi dậy chống lại triều đình, bị truy nã phải thay tên đổi họ trốn đi nơi khác.
Năm 1870, Hoàng Hoa Thám tham gia khởi nghĩa của Đại Trận và được gọi là Đề Dương. Khi Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất (tháng 11-1873), Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa binh của Trần Xuân Soạn là lãnh binh tỉnh Bắc Ninh. Khi Pháp chiếm Bắc kỳ lần thứ 2 (tháng 4-1884), ông tham gia khởi nghĩa của Cai Kinh (Hoàng Đình Kinh) ở Hữu Lũng (1882-1888). Cuối năm 1885, ông cùng Bá Phức trở lại Yên Thế đứng dưới cờ của Lương Văn Nẫm (tức Đề Nẫm) và trở thành một tướng lĩnh có tài.
Tháng 4-1892, Đề Nẫm bị thủ hạ là Đề Sặt sát hại. Hoàng Hoa Thám trở thành thủ lĩnh tối cao của phong trào Yên Thế, tiếp tục hoạt động, lập căn cứ ở Yên Thế và trở thành thủ lĩnh danh tiếng nhất của phong trào với biệt danh “Hùm xám Yên Thế”. Ông có tài dùng binh, thu phục được nhiều tướng giỏi mưu lược, khiến giặc ngày đêm lo sợ. Giặc Pháp nhiều lần phối hợp với Tổng đốc tay sai là Lê Hoan một mặt đàn áp, mặt khác dùng chiêu dụ hàng nhưng chúng vẫn không khuất phục được ông. Đến năm 1894, chúng chịu điều đình giảng hòa và cắt cho ông 6 tổng gồm 22 làng ở Phồn Xương.
Bên ngoài ông giả vờ giảng hòa nhưng bên trong ông cho lập đồn điền, xây dựng cơ sở, liên hệ với văn nhân yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phạm Văn Ngôn, mở rộng địa bàn hoạt động. Đảng Nghĩa Hưng cũng do ông làm lãnh tụ. Từ đấy suốt 10 năm ông liên tục chiến đấu, gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp và bọn tay sai. Sau chúng phải huy động lực lượng lớn, dốc sức tấn công, ông bị thua nặng phải trốn vào rừng. Trong gần 30 năm lãnh đạo, ông đã tổ chức đánh nhiều trận, tiêu biểu là Luộc Hạ, Cao Thượng (tháng 10-1890), thung lũng Hố Chuối (tháng 12-1890) và Đồng Hom (tháng 2-1892), trực tiếp đương đầu với các Thiếu tướng Godin, Voyron và Đại tá Frey.
Ngày 12-9-1913, ông bị thuộc hạ của Lương Tam Kỳ phản bội ám sát. Phan Bội Châu có thơ điếu ông, tôn ông là Chân tướng quân (tướng quân chân chính). Vợ của ông là bà Đặng Thị Nhu cũng rất nổi tiếng, đã giúp ông nhiều công việc trong vùng đồn điền và trong trận mạc. Dân gian còn lưu truyền nhiều giai thoại kể về tài đánh giặc của vợ chồng ông. Chính vì sự ngưỡng mộ với người anh hùng Yên Thế, Đơrao Sacbone - một sĩ quan Pháp, đã bỏ nhiều năm đi tìm mộ Đề Thám và năm 1944, ông đã tìm thấy ngôi mộ tại Đồi Ngô thuộc cánh đồng Hữu Phúc. Với cảm xúc kính trọng, ông viết: “Khi mặt đất phủ bóng tối đã lộ ra dấu tích của ông và đồn Hữu Nhuế, tôi cảm thấy mình bay bổng cùng huyền thoại về người anh hùng và chắc chắn sẽ sống mãi với các thế hệ người Việt Nam”.
Cả gia đình Đề Thám hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc một cách anh hùng và cảm động. Người con cuối cùng của ông là bà Hoàng Thị Thế bị bắt về Pháp từ khi mới 6 tuổi, cuối đời bà về nước và qua đời ở Việt Nam. Theo di chúc, bà được an táng tại Phồn Xương, nơi người cha nhiều năm tháng xây dựng căn cứ chống giặc. Dấu tích thành Phồn Xương nay vẫn còn, tại đây có tượng đài và nhà lưu niệm về Đề Thám. Tại xã Dị Chế, dòng họ Trương cũng trưng một bàn thờ đơn sơ thờ Trương Văn Nghĩa, người con trung hiếu của quê hương và dòng họ. Bài văn Thề đánh giặc của ông được giữ gìn như một kỷ vật thiêng liêng:
Hỡi người dự lễ hôm nay
Cùng nhau ta nắm chặt tay thề nguyền
Thề kế tiếp trung hiền, tiên liệt
Đem máu xương trừ diệt xâm lăng
Cùng nhau hô tiếng to vang
Việt Nam độc lập vững vàng muôn năm.
Lời bàn:
Có thể đây là cuộc khởi nghĩa lớn nhất, có thời gian kéo dài nhất (gần 30 năm), quyết liệt nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến những năm đầu thế kỷ XX. Khởi nghĩa Yên Thế không chịu sự chi phối của tư tưởng “Cần Vương” mà là phong trào đấu tranh tự phát của nông dân để tự vệ, bảo vệ quyền lợi thiết thân, giữ đất giữ làng. Nghĩa quân đã chiến đấu quyết liệt, buộc kẻ thù hai lần phải giảng hòa và nhượng bộ một số điều kiện có lợi cho nghĩa quân. Và cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế đã đi qua hơn 1 thế kỷ. Người anh hùng Yên Thế đã là “người thiên cổ” nhưng ý nghĩa lịch sử của nó vẫn trường tồn cùng dân tộc.
Đó là ý chí, sức mạnh và khả năng lớn lao của nông dân trong lịch sử đấu tranh của dân tộc. Đồng thời, chính cuộc khởi nghĩa này đã trực tiếp làm chậm quá trình xâm lược và bình định của thực dân Pháp đối với nước ta. Và điều quan trọng hơn là cuộc khởi nghĩa đã khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam trước bọn cướp nước, bán nước và nó cũng chỉ ra rằng nông dân cần có một giai cấp tiên tiến lãnh đạo để thực hiện công cuộc giải phóng đất nước.
Nhận xét
Đăng nhận xét